Tôi ngồi giữa quán đông người
Phải nghe thiên hạ nói cười với nhau
Mà lòng ở tận đâu đâu
Thẩn thơ gỡ hạt mưa ngâu giữa trời.
Tôi ngồi giữa quán đông người
Phải nghe thiên hạ nói cười với nhau
Mà lòng ở tận đâu đâu
Thẩn thơ gỡ hạt mưa ngâu giữa trời.
Có thể là tất cả mùa thu Đã cuộn vào chiếc lá khô vừa rụng Chiều cuối mùa nay Tiếng còi tàu run rẩy Tiễn đưa thêm một ngày trôi . Cà phê đắng lạnh làn môi lạnh Mùa đi xóa những vết ân tình Hát lên tên người tình bé nhỏ Thêm một lần Rồi để lãng quên... . Tôi vô nghĩa y như con đường vắng Đến một ngày không có nổi dấu chân Đến một ngày như loài hoa thắp lửa Cánh đã phai lặng rụng góc đường . Lặng lẽ tuổi năm mươi Như một mùa thu không hương sắc Đang trôi qua từng phút từng giờ Yêu thương hay là ảo ảnh ? Đam mê hay trang sách cũ mèm ? Tôi hay ai, hay giấc mơ không tỉnh... Khúc cuối mùa Ngơ ngẩn… Sang đông ? . 16.10.2021
Giọt mưa đêm rơi qua miền ký ức
Thắp hừng lên đôi mắt người xưa
Đáu đáu ơi tháng ngày dài vô cảm
Có phai mờ những giọt lạnh chia ly ?
10.2014
Có cơn mưa nhỏ mang làn gió lạnh
Có mùa thu dùng dằng chẳng muốn qua.
Có gã giang hồ kẹt giữa hai mùa trái ngược
Có chiếc ba lô bụi phủ góc nhà.
Tuổi năm mươi trăng thì ở cuối trời
Tóc thì đọng những giot màu cơm áo
Thu ở lại hay ngày mai đông tới,
Thương nhớ nào những sỏi đá chưa qua ?
Giang hồ lạnh giữa phồn hoa đô thị
Ly cafe đắng ngắt níu chân người.
Những vần thơ cuối mùa như quẹt lửa
Thảng thốt nghe ai gọi phía sau mình...
HM 1.11.19
“Này, sáng mai cà phê đê.”
Cô bạn rủ, ôi trời, mai tỉ việc : “Tuần sau nhé ?” , “Tuần sau không có ngày 12 ông ơi”. Tôi thấy oán cái trí nhớ tồi tệ của mình, và oán yêu cả cái trí nhớ siêu phàm của bạn nữa.
————-
Cà phê, từng giọt rơi tí tách…
“Bốn mươi bốn năm rồi ông nhỉ ?”
“Không, tôi chuyển sang lớp mình khi đã học được một học kỳ”.
“Ờ, thế cũng 43 năm rưỡi rồi”
Ôi thời gian, thời gian, thời gian….
“Ngày ấy các bà chơi nhảy ngựa, không cho tôi chơi cùng, lại cho thằng Quang chơi là sao ?, tôi gato đấy.”
“Cho ông chơi trốn tìm còn gì”
Ừ, chơi trốn tìm. Năm… mười … mười lăm… hai mươi… nhịp đếm tuổi thơ như dòng sông êm đềm chảy về trong tiếng của từng giọt rơi. Mỗi đứa mỗi nơi, tôi là đứa đi tìm… Chúng tôi ngày đấy đâu hình dung được rồi cuộc đời cũng là một trò chơi trốn tìm lớn. Cũng năm… mười… mười lăm… hai mươi… cũng trốn mỗi người mỗi nơi. Ngày gặp nhau, vỡ òa như trò chơi đến khi cao điểm.
Ngày hôm nay, tôi đang ở nhịp đếm nào ? Năm mươi ư ? hay là mới hai lăm ? Phố ngoài kia thật ồn ào. Người ta, ai cũng mải miết trốn tìm trong trò chơi của riêng mình. Chúng tôi, ở cái quán cà phê kín cửa điều hòa này, yên tĩnh và mát mẻ như cái ốc đảo giữa lòng sa mạc, như cái ốc đảo yên tĩnh của tình bạn ở giữa dòng đời nắng rát lửa và nhộn nhạo.
Cà phê, từng giọt rơi tí tách…
Tôi lơ đãng nhìn cô bạn thanh mai qua kẽ tay. Thời gian làm tàn phai những khóe mắt đầu mày nhưng với tôi, bạn luôn rạng rỡ trong nét hồn nhiên như mỗi khi tôi là đứa không tìm ra người trốn, và bị ăn cái đập vào vai. Trò chơi trốn tìm… nhịp mười hai… năm sáu đứa học nhóm chung… trái tầm ruột hái trộm nhà hàng xóm chấm muối ớt chua cay…
“Ngày đấy ông học toán giỏi mà sao không nhớ được con số của chính mình ?”.
Ừ, cuộc đời toàn số là số, tôi cả đời mải theo những con số xa lạ, lại quên con số của chính mình… Hai lăm hay năm mươi, mười ba hay ba mốt, số nào là của tôi ? số nào giữ tôi và bà ở hai phía cái bàn này, mà nghe tiếng tí tách những giọt cà phê rơi ?
“Hôm nay sẽ mưa chứ ? – sinh nhật ông năm nào chẳng mưa.”
“Ừ, kiểu gì chẳng mưa. Mẹ bảo sinh tôi trong lúc trời đang mưa to mà.”
Trời cho con được sinh ra khi mưa nên suốt cả cuộc đời này, con mang theo trong mình cảm xúc của mưa. Những khi buồn hiu hắt, những khi thấy cô đơn, những khi không ai hiểu mình, những giấc mơ dang dở, những khi mưa… “Tuổi canh tuất đứa nào cũng thế”, “Thật thế sao ?”. Chúng tôi rơi vào một khoảng trống của sự tĩnh lặng.
Cà phê từng giọt rơi tí tách…
Ai nghĩ ra cái thứ cà phê này, vừa ngọt lại vừa đắng – sự cân bằng, sự bình đẳng cho các thứ mùi vị tạo nên một ly cà phê hoàn hảo. Nhưng cuộc sống không được như thế, nhiều khi chỉ toàn đắng là đắng. Bạn đã qua những đoạn đường đời chỉ có những ly cà phê không đường. Cuộc sống không giống ly cà phê ngon, cuộc sống giống trò chơi trốn tìm hơn.
Năm… mười… mười lăm… hai mươi… chúng tôi, mỗi người đang ngấm giọt cà phê của riêng mình và cùng đưa mắt ngắm nhìn ngoài phố kia. Ngoài kia phố tháng Sáu nắng chói chang, những bông phượng đỏ rực dưới trời xanh thăm thẳm…Lát nữa thôi, chúng tôi lại đi trên con phố ấy, dưới bầu trời ấy, lại tiếp tục trò chơi trốn tìm để đi tìm những những ly cà phê hoàn hảo vô thực.
Nhịp đếm năm mươi, tuổi năm mươi… vẫn đi tìm… hoa bằng lăng… bầu trời xanh…và những ly cà phê. Trò chơi tuổi thơ khéo đeo đuổi suốt cả cuộc đời này….
————–
Nửa đêm nhận được tin nhắn “Hôm nay không mưa, ông ạ”.
Ôi đời, nhịp đếm Năm mươi chẳng lẽ lại khác ư, trò chơi này, ly cà phê này sẽ khác ư ?
.
Tin được không ?
12.6.2019
Ôi đời…
một cánh thiên di
Xuân chưa kịp khóc…
thiên thu đã cười.
Nửa đêm khuya đọc thơ Hai Kâu của Lê Đạt, tự thấy có ý thích học ông. Nếu có gì thất lễ, xin tiên sinh lượng thứ.
VẤP NGÃ
Đời,
vấp ngã
khúc nắng chiều
nông nổi.
Thiên thu
buồn
lật vội một trang thơ.
—–
NGÕ EM
Ngõ em xưa
tím
môi hôn
dìu dặt.
Gió.
Giật mình.
Phảng phất
trắng
mây bay !
26/12/15
Đi mãi về đâu những tháng ngày,
Những mảnh mùa đông lay lắt trôi ?
Rồi như cánh bướm đêm đông rét
Mộng mị, ta lao đám lửa hồng….
< Tặng một người anh >
Còn lại gì sau một khúc cua ?
– Còn vết bánh xe xa dần đường cũ
Đôi ô cửa phía sau đã tối đèn
Và căn bếp sẽ không bao giờ đỏ lửa.
Em còn gì sau một khúc cua ?
– Chiếc va ly mấy bộ váy chuyển màu
Vài lời hứa về một mùa ảo vọng
Với một giấc mơ em dệt giữa ban ngày.
Anh còn gì sau một khúc cua ?
– Những đêm khuya say lạc lối về
Dăm bài thơ nát nhàu quên trong túi
Biển những người tình anh chẳng biết tên
Ta còn gì sau một khúc cua ?
– Còn đôi mắt thơ ngơ ngác ngã ba đường…
16.1.2017
Như đoàn tàu không có sân ga
Những toa đêm đi qua tôi
Ồn ào và lặng lẽ
Nặng nề và nhẹ tênh
.
Những toa đêm đi trong mưa
Chở những nỗi niềm câm
Những khát vọng bị bỏ rơi
Những đam mê vỡ vụn
Những nụ cười trước những nỗi đau
.
Như đoàn tàu không có sân ga
Những toa đêm chở mùa thu
Chở những mối tình hờ
Chở Em và đôi mắt ướt
Ngơ ngác trong chiều chia ly
Những toa đêm chở một lời gian dối
Nặng hơn mọi bão giông
.
Như đoàn tàu không có sân ga
Những toa đêm đưa tôi đi
Qua những miền vô thực
Những đêm
Tôi thực là tôi
Không xuân hạ thu đông
Tôi trong mùa của riêng mình
Ôm bóng trăng
Hát, khóc và say
Như một kẻ tâm thần
.
Và những toa đêm
Vẫn qua dài những tháng năm…
.
14.10.2016
Nắng mưa
hóa đá câu thề
Chân cầu
nước chảy,
Người về nơi đâu ?
Thôi,
tình cũng đã bể dâu.
Trách chi năm tháng
vết đau không lành !
18.11.2015
Khi tôi lên sáu, bố tôi dạy :
– Cây có cội, suối có nguồn. Quê hương là nguồn, là cội của mỗi con người.
Khi ấy, lời bố như gió thoảng bên tai, tôi còn bận bịu với những trò chơi bi, chơi khăng, chơi súng phốc với chúng bạn.
Làng Hoàng Mai là quê tôi, xưa kia ở cổng làng có đặt bốn con chó đá. Vì thế những người ở nơi khác thường gọi, không biết là trìu mến hay khinh miệt, dân Hoàng Mai là “dân bốn chó đá”. Đến thời chúng tôi thì bốn con chó đá đã không còn, nghe nói người ta đã đập nát chúng để tìm vàng giấu bên trong.
Trên bố tôi có bác tôi và dưới bố tôi còn có cô và chú. Bố tôi kể, khi bố và bác tham gia kháng chiến ở xa, cô ở lại buôn bán nuôi cả gia đình. Rồi cô lấy chồng nghèo. Mấy chục năm trước, hai vợ chổng cô theo lời Nhà nước bỏ làng lên miền núi khai hoang. Chỉ hơn một trăm cấy số, nhưng ngày xưa xe cộ khó thì là xa lắm. Mỗi năm một đôi lần, vợ chồng cô lại đạp xe về Hà Nội ăn giỗ. Chiếc xe đạp cũ kỹ chở hai người vẫn còn buộc được thêm cái bu gà và bao tải gạo nếp. Gà góp giỗ còn gạo nếp cô chia cho từng nhà. Dù chỉ vài bơ gạo, nhưng vào cái thời nghèo khó bao cấp ăn cơm độn ngô sắn xưa, thì nắm xôi lạc cũng là một sự xa xỉ lớn với mấy đứa cháu đương tuổi ăn chúng tôi. Cô đến chơi từng nhà người quen, ngồi nói chuyện thâu đêm, những câu chuyện thúng mẹt cũ, chuyện cây cà cây cải, người này người kia. Tôi nằm trên giường, nghe mơ màng bố mẹ tôi và cô chú nói chuyện. Ngày xưa cô đẹp nhất làng, hàng ngày quảy đôi quang gánh trên con đường làng, kĩu kịt gánh nặng gia đình trên vai…
Năm tháng trôi nhanh, chú rể tôi mất, cô bận việc con rồi việc cháu nên dần ít về thăm quê. Làng Hoàng mai xưa giờ đã thành một phường của thành phố. Thi thoảng chúng tôi chạy xe lên với cô. Mỗi lần gặp, lại thấy tóc cô bạc thêm, khuôn mặt thêm nhiều nếp nhăn. Thấy chúng tôi, cô mừng lắm. Bỏm bẻm nhai trầu, cô chậm rãi hỏi thăm người này người kia, rồi vẫn kể những câu chuyện thúng mẹt cũ. Những câu chuyện về Hoàng mai xưa, những câu chuyện các con cô không biết, tôi không biết, chỉ bố tôi và chú tôi gật gù. Ngày xưa…
Mùa xuân năm nay, mưa xuân kéo dài lê thê trên những mái nhà tôn xanh đỏ và con đường bê tông nhớp nháp bùn đông người tứ xứ. Hình như không còn ai nhớ làng Hoàng Mai ở đâu nữa. Nghe tin cô yếu, chúng tôi vội lên thăm cô. Con đường hơn trăm cây số, chỉ ba giờ xe chạy. Tôi thảng thốt, sao nhiều lúc mình nghĩ đường xa đến thế.
Hơn tám mươi tuổi, mắt mờ và đã lẫn hết cả, con cháu cô không còn nhớ được ai. Bố tôi lưng còng ngồi bên cạnh giọng run run “Bà ơi, tôi là Chúc đây, bà có nhận ra tôi không ?”. Cô tôi lơ đãng mắt xa xăm “Bà Huệ là chị tôi, ông Chúc là anh tôi, quê tôi làng Hoàng mai bốn chó đá.”
Tôi như lại mơ màng thấy trong lời cô tôi bóng dáng của con đường làng ẩm ướt mưa xuân, người thiếu nữ áo trắng gánh trên vai kĩu kịt và những cánh hoa xoan phơi phới bay…
27.3.2015
Tặng T.C.
Tác giả xin cảm ơn bạn Thu Diệp và Phuong Aries đã góp ý kiến để hoàn thiện truyện ngắn này.
Xin cảm ơn chị Rainbow đã cho phép tác giả sử dụng một số câu thơ của chị trong truyện.
1. Ngày tận thế
“Chúng tôi tin tưởng vào tính toán của các nhà khoa học. 12 giờ đêm ngày 21 tháng12 năm .20xx sẽ là ngày cuối cùng của nhân loại”
Thông tin tối quan trọng trên được Ủy ban khoa học của Liên hợp quốc xác nhận sau một cuộc họp khẩn của các nguyên thủ quốc gia. Mọi công dân trái đất có quyền được biết tương lai đen tối mà họ sắp đối mặt. Theo các nhà khoa học, các phương án dùng phi thuyền và kể cả các loại bom và tên lửa hạt nhân lớn nhất mà thế giới đang sở hữu đều không có mảy may tí cơ hội nào bẻ hướng được một tiểu hành tinh khổng lồ bằng nửa mặt trăng đang lao nhanh về trái đất.
Có lẽ Chúa Trời đã quá chán chường với những lỗi lầm mà loài người gây ra. Ngài thấy mệt mỏi khi cứ phải tìm cách sửa chữa những sai lầm mang tính hệ thống của những sinh vật tự nhận mình là bậc cao do Ngài tạo ra.
Buổi chiều ngày tận thế. Cả thế giới như một nồi nước sôi.
Người khóc, người kêu gào, người buồn bã, người chán nản, lại có người hì hục đào một đường hầm sâu hàng chục mét trong nhà mình để hy vọng có thể tránh thiên thạch… Cũng có một vài người cười, tiếng cười bình thản như khi họ sắp khởi hành một chuyến đi chơi xa.
Nhiều người lại tận dụng chút thời gian cuối cùng để làm việc mà họ cho là có ý nghĩa nhất với cuộc đời mình.
2. Nhà thơ 1
Hai mươi mốt tuổi, cao gần một mét bảy, tóc ngang vai và da trắng, người ta gọi nàng là Nhà Thơ, bởi lẽ đơn giản là nàng làm được thơ. Chẳng ai để ý nàng ở đâu và từ đâu đến. Mỗi ngày Nhà Thơ làm một bài, có thơ hay, có thơ dở nhưng ngày nào nàng cũng có thơ. Có bài nàng viết ra giấy, cũng có nhiều bài chợt đến trong đầu, nàng lẩm nhẩm đọc, cười và quên.
Chiều, nàng thích thong dong tản bộ trên phố. Những con phố Hà nội buổi chiều ồn ào và mù mịt khói xe. Có khi nàng dừng ở chỗ chợ đông để xem người ta mua bán. Lại có lúc nàng ngồi nơi quán cóc bên hè đường, dứt khoát chờ đợi một trái sấu rơi. Người ta cũng thường thấy Nhà thơ xuống đê, đi dọc con phố nhỏ và dừng lại ở quán cafe bên bờ sông. Nàng tìm một chiếc bàn vắng ngoài sân, thả ánh mắt lướt mặt sông, nghe rì rào những con sóng vỗ và xem vài con thuyền về bến muộn. Chẳng phải để làm thơ, mà chỉ đơn giản là nàng thích thế. Nàng thích những thứ dường như tầm thường, những thứ ai cũng thấy, nhưng lại chẳng mấy ai biết. Ví như đám mây màu da cam phía cuối trời kia là linh hồn một cô gái vừa quyên sinh vì bị dối lừa. Hay như làn gió quyện hương hoa sữa là sợi dây của thần tình yêu thít chặt những đôi lứa đang dắt tay nhau đi bên đường kia.
Với Nhà Thơ, ngày tận thế cũng chỉ đơn giản là một ngày. Thơ mới là thứ quan trọng, vì loài người sẽ không sống sót qua ngày tận thế, nhưng thơ sẽ tồn tại mãi cùng thời gian. Thơ là thứ mang bản chất tự nhiên của vũ trụ mà ngôn từ chỉ là thứ công cụ hạng bét dùng để biểu hiện thơ. Chị Hằng và chú Cuội cuội cô đơn trên mặt trăng xa xăm kia nhưng hàng nghìn năm qua đã là thơ của biết bao thế hệ người.
Chiều ngày tận thế, Nhà Thơ vận một bộ áo váy ngắn sẫm màu , bó sát người và trông khá gợi cảm. Vẫn như thường lệ, nàng thả những bước phiêu diêu trên phố và lại dừng bên quán cafe quen thuộc. Quán vắng không người, Nhà Thơ đến quầy bar, tự chế cho mình một ly ca cao nóng. Ngồi bên chiếc bàn cạnh bờ sông quen thuộc, tinh nghịch như một thiếu nữ mười sáu, nàng bóc những hạt hướng dương, thả vào trong ly ca cao. Đấy là một phát minh nho nhỏ của riêng nàng. Hạt hướng dương được phủ bên ngoài lớp ca cao có chút ngọt, có chút đắng lại thoang thoảng mùi thơm, thật tuyệt vời.
Trái với những hỗn loạn đang xảy ra trong thành phố, chiều nơi bờ sông đang buông một cách lặng lẽ. Phía cao xa ở bên kia bờ sông, mảnh trăng chiều muộn đã lên lưng trời. Nàng có cảm giác trăng đang nhìn trộm mình từ trên cao. Lật mặt sau mảnh giấy ghi tên đồ uống trên bàn, nàng viết :
“Trăng này, sao lén xem thơ
Mà rơi đáy nước bơ vơ nửa vầng ?”
Nàng lại viết tiếp:
“Chèo thuyền ra giữa bâng khuâng
Với tay vớt mảnh phù vân trả trời.” (1)
Nhà Thơ hài lòng với những câu thơ của mình. Nàng đứng dậy loay hoay tìm cái xắc nhỏ. Nàng không tìm thấy, có lẽ nàng đã không mang theo hoặc để quên đâu đó. Nhà Thơ thì ngoài thơ ra chẳng nhớ nổi cái gì. Nàng không muốn mắc nợ nhà hàng, dù chẳng có ai ở đấy cả. Người ta ai cũng nợ nhau, không nợ tiền thì cũng nợ tình. Nợ tình hay tiền thì rốt cuộc cũng sẽ làm khổ nhau. Nàng ngồi lại xuống ghế, tờ giấy vừa viết những vần thơ ban nãy vẫn đang nằm trên mặt bàn. Và như một nhà ảo thuật chuyên nghiệp, Nhà thơ úp đôi bàn tay trắng lên bài thơ giây lát rồi mở ra. Kỳ lạ thay, dưới đôi bàn tay nàng, mảnh giấy đề thơ kia đã biến thành một tờ tiền màu xanh sẫm. Nàng mỉm cười, để lại tiền và trở gót, tiếp tục những bước phiêu diêu…
3. Giáo sư
Ông là một học giả đáng kính, giáo sư đứng đầu ngành vật lý thiên văn của trường đại học nổi tiếng nhất Việt nam. Ông cũng chính là một trong số các nhà khoa học ưu tú nhất thế giới được Liên hợp quốc mời vào Ủy ban Cứu nguy Trái đất để xác định đường đi của thiên thạch và tìm phương án khả dĩ có thể cứu nhân loại. Ống đã bỏ về nước trước khi cái tập thể thông minh nhất của loài người ấy tuyên bố rằng họ bất lực, bởi vì ông nhìn thấy điều đó trước họ. Đúng, rõ ràng chẳng có một cơ may nào cả, trừ khi mặt trời tự dưng hoạt động mãnh liệt, thổi ra những luồng Plasma năng lượng đủ lớn để làm lệch quỹ đạo của thiên thạch. Nhưng Giáo sư cho rằng điều đó không thể xảy ra.
Giáo sư tần ngần đứng trong vườn nhà mình. Như tất cả các thời gian khác trong ngày trừ lúc đi ngủ, ông đang bận giày đen bóng, quần âu là ni thẳng băng, áo ca rô xanh sọc to và ca vạt màu hoàng yến. Kể từ khi rời bỏ hội nghị khoa học của Liên hợp quốc, ông không đến trường đại học nữa. Vật lý hay thiên văn ư ? Dẫu chúng có mang ông đến đỉnh cao sự nghiệp thì rốt cuộc cũng chỉ là mớ triết lý trừu tượng với những công thức khô khan. Và cuối cùng thì khoa học cũng đành bất lực trước cái kết bi thảm mà Chúa trời dành cho thế giới. Ông tần ngần đứng ngắm bộ sưu tập hoa hồng mà ông chăm chút từ nhiều năm nay trong vườn nhà. Mùa đông năm nay khá ấm áp, ông để cả thảy hơn trăm gốc hồng ngoài sân để chúng được đón những buổi nắng hồng. Mỗi cây hoa một chậu riêng để ông có thể dễ dàng thay đổi vị trí sắp xếp theo mùa trong năm và khi cần, chuyển vào những nơi ấm áp hơn hoặc để tránh những hôm mưa gió. Giống như trang phục của thiếu nữ, những chiếc chậu trồng hoa cũng là một sự lựa chọn công phu. Màu sắc, kiểu dáng và họa tiết của chậu được ông cầu kỳ đặt riêng cho từng cây hoa tận bên làng gốm Bát Tràng.
Giáo sư tần ngần vì ông thấy tiếc thương cho cả một niềm đam mê còn đang dang dở. Những bông hoa hồng hoàn hảo nhường kia đến cuối ngày mai tất cả rồi cũng trở thành cát bụi vũ trụ lạnh lẽo. Người ta ví hoa hồng với thiếu nữ bởi vẻ đẹp rực rỡ và hương thơm quyến rũ. Ông có cả thảy một trăm hai mươi mốt cây hoa hồng, một trăm hai mươi mốt nàng thiếu nữ đẹp mê hồn và đầy cá tính. Hoa hồng tượng trưng cho tình yêu. Tình yêu tinh khiết ngây thơ màu trắng muốt, tình yêu say đắm mãnh liệt màu đỏ rực rỡ, tình yêu mơ mộng lãng mạn màu phớt hồng, tình yêu ghen tuông màu da cam, tình yêu cô đơn, buồn bã và bí ẩn màu đen…
Ông tự hào với bạn bè vì có những cây hồng đặc biệt được ông kỳ công mang từ nước ngoài về cùng mỗi lần đi công tác. Ông yêu và say mê những bông hồng như tình nhân, nhiều đến mức vợ ông phải phát ghen mỗi khi ông giành quá nhiều thời gian cho cái vườn hoa sau nhà. Tuy vậy, bà cũng phải thừa nhận, thà rằng để ông say mê mấy bông hồng trong vườn còn hơn để ông say mê lũ hoa hồng xanh đỏ đi đầy đường phố ngoài kia.
Hàng xóm với nhà Giáo sư là một đôi vợ chồng trẻ. Họ sống khá vương giả trong căn biệt thự rộng với những cửa sổ màu vàng nhạt. Một trong những ô cửa ấy nhìn sang vườn hoa nhà Giáo sư đáng kính ở một khoảng cách gần. Trong khu đô thị mới cao cấp, các nhà chỉ cách nhau cái rào hoa sắt cao nửa người. Người Vợ có đôi khi đứng ngắm những bông hoa hồng qua cửa sổ. Nàng thích vẽ những bông hoa kiêu kỳ và rực rỡ ở bên kia. Những người vợ đẹp và lãng mạn thường mang sẵn trong mình những mầm mống của sự xung đột dành cho người đàn ông của mình. Người Vợ thích những bông hoa hồng đẹp bên nhà Giáo sư, nàng thích chúng một cách tự nhiên với sự trong sáng tuyệt vời của một nữ thần. Nhưng Người Chồng thì lại không nghĩ như vậy. Miệng Người Chồng vẫn một nụ cười dường như hàm chứa nhiều tình cảm nhưng ánh mắt đã hằn lên một tia ngờ vực. Nó được dành cho người đàn ông đáng kính mặc áo ca rô xanh và cà vạt màu hoàng yến ở bên nhà hàng xóm..
“Ngày nào chẳng mua đủ loại hoa về cắm sao còn phải ngồi hàng giờ xem hoa nhà người ta ?” – Người Chồng chì chiết mỗi khi bắt gặp vợ mình đang gửi hồn nơi những bông hoa hồng ở phía bên kia. Nàng không ngạc nhiên với thái độ của chồng. Hiểu chồng chẳng ai bằng vợ. Những năm chung sống đã cho nàng một mớ những kinh nghiệm sống chung với chồng, người từng là thần tượng của nàng khi đang tuổi đi học mộng mơ.
.
Người chồng bảo vợ mua hoa về nhà trồng, đất vườn nhà còn rộng gấp ba, bốn lần bên kia. Nàng không muốn giải thích về sắc đẹp những bông hoa bên nhà Giáo sư. Những bông hoa ấy được mang về từ những phương trời xa xôi và được chăm sóc hết sức tinh tế. Nàng biết, chồng nàng, dẫu là quan chức cao cấp của một công ty lớn và giàu có, cũng chỉ là một thứ dùi đục chấm mắm cáy. Có ai muốn giải thích cho con bò biết hoa mẫu đơn cao quí đến nhường nào hay không ?
Nghe chồng chì chiết nhiều lần, Người Vợ cũng không dám nhìn sang vườn hoa bên kia thường xuyên nữa. Nhưng những khi chồng xa nhà, thì chẳng còn ai cấm nàng lại đến bên cửa sổ để ngắm và thỏa sức vẽ hoa. Một buổi sáng Người chồng trở về sớm hơn dự định. Một cuộc cãi nhau nho nhỏ nổ ra. Màu vẽ và can vát tung tóe khắp nhà. Mặc dù Người Vợ là người thua cuộc đã bỏ vào phòng và chốt chặt cửa, nhưng Người chồng không thấy yên lòng. Trong cơn điên của sự tức giận, người chồng vớ luôn cả ấm nước đang sôi trên bếp ném sang vườn hoa nhà Giáo Sư.
Vào buổi chiều khi trở về nhà từ trường, Giáo Sư chết lặng khi nhìn thấy cây hồng tím mang vẻ đẹp hoang dại và bí ẩn đang rũ ra và đỏ quạch như những cuộng rau muống luộc quá lửa. Ông như thấy như bị ai dùng dao cứa đứt tay mình. Cái ấm nước inox tung nắp nằm chỏng chơ trên vườn như đang cười trêu ngươi ông. Giáo Sư nhặt cái ấm lên, vẻ mặt hầm hầm với tất cả lượng máu trong cơ thể đang dồn lên. Ông sang nhà hàng xóm.
Chưa bao giờ người dân trong khu đô thị này lại được chứng kiến một cuộc chiến âm thanh to đến thế, và cuộc chiến này còn đặc biệt ở chỗ, một bên tham chiến là vị giáo sư kiệm lời được cả khu phố kính trọng. Vũ khí của Giáo sư là những lời thâm thúy phù hợp với người có thâm niên hơn ba mươi năm là giảng viên đại học. Người Chồng cũng chẳng phải tay vừa nhưng đối đáp không kịp với Giáo sư. Dường như những ấm ức ghen ghét từ ngày Người Vợ thích ngắm hoa hàng xóm nhân dịp này bung cả ra, tích tụ cả vào nắm đấm nên chỉ một cú cũng đủ làm Giáo Sư ngã ngửa về phía sau, miệng đầy máu. Người Vợ đang khóc một mình vội lao vào can chồng, trong khi vợ Giáo Sư vừa kịp sang cũng dìu được chồng đứng dậy. Cuộc chiến bỗng bất ngờ kết thúc, Giáo sư chợt nhận ra đấm đá nhau tay đôi theo kiểu những kẻ phàm phu không hợp với vị thế của một vị giáo sư đi giày đen và vận cà vạt màu hoàng yến. Ông ném cho đối thủ ánh mắt kinh bỉ rồi cùng vợ ra về.
Nhưng Người Chồng không phải là một kẻ dễ quên. Đến nhiều hôm sau, những lời nói thâm thúy của Giáo sư từng làm y mất mặt ghê gớm với dân hàng phố vẫn còn như làm đau lỗ tai y. Người Chồng muốn trả thù vị hàng xóm đáng ghét. Y suy nghĩ một ngày rồi quyết định đánh vào chính sự say mê và niềm tự hào của đối thủ. Rõ ràng y là một người khó lường. Cây hoa hồng tím kia là niềm tự hào lớn nhất, vừa bị y sát hại, vẫn chính là chỗ giáo sư dễ bị tổn thương nhất. Nhận định thế, Người Chồng bỏ ra số tiền hơn ba nghìn bảng Anh thuê một tiếp viên hàng không mang về một cây hồng tím từ nước Thụy sĩ xa xôi. Y đặt cây hồng với những nụ hoa tím đang chúm chím ở bên vườn nhà, ở khoảng cách đủ gần để Giáo sư thấy rõ và đủ xa để không thể bị tắm nước sôi. Vài nụ hoa mới hé nở bị y bẻ cuống gãy gập, rủ xuống một cách đau thương.
Thật khó diễn tả nỗi lòng tổn thương của Giáo sư khi lần đầu nhìn thấy những bông hoa ông yêu thích bị hành hạ, chỉ biết rằng ông đã chạy vào nhà và khóc thổn thức như đứa trẻ lên hai bị ai làm vỡ quả bóng bay. Đến mấy hôm sau ông không dám ra vườn hoa. Nhưng niềm đam mê là thứ chất lỏng không chịu nằm yên. Thế rồi ông vẫn lại phải trở ra, để ngắm nhìn và vuốt ve những đứa con yêu kiều và để đau đớn chứng kiến đứa con lưu lạc bị người ta hành hạ ở phía bên kia.
Ông càng đau xót hơn khi ngày mai sẽ là ngày cuối cùng của thế giới. Sau ngày mai là chẳng còn gì. Đương nhiên kể cả cái ước nguyện về một sự hoàn hảo cho niềm đam mê hoa hồng của ông cũng sẽ là hư không. Tim ông nhói đau khi chợt nhìn sang vườn nhà hàng xóm. Nàng thiếu nữ màu tím bên ấy đang khóc than cho cuộc đời đau thương dưới bàn tay của bạo chúa.
Giáo sư nhìn sang cây hoa hồng tím bên nhà hàng xóm rồi lại nhìn về vị trí trống lẽ ra thuộc về một cây hồng tím chị em khác. Ông ngầm so sánh về hình dáng và độ tuổi của cây,về màu sắc của lá và cành, thậm chí cả về sự mau thưa của những cái gai. Tất cả đều vừa khớp, thậm chí nàng hoa bên kia còn có những nét sắc sảo hơn. Ông thoáng tưởng tượng đặt nàng hoa tím bên kia giữa các nàng trắng, hồng, vàng, đen bên này. Hoàn hảo, tất cả sẽ là cái đẹp hoàn hảo, như những gì ông mong ước. Giáo sư bất giác khẽ văng một câu tục tĩu. Mấy chục năm nay ông mới lại nói tục, và có lẽ là câu tục cuối cùng của đời ông. Đến mai tất cả sẽ kết thúc, nhưng niềm đam mê của ông thì mãi mãi dang dở vì một gã hàng xóm khốn kiếp. Ông những muốn nhảy qua bờ rào mà giải phóng cho nàng Hồng Tím, mà ring nàng về nơi nàng phải thuộc về….
Nghĩ đến đây ông chợt đỏ mặt tía tai. Một đời ông chưa bao giờ làm gì khuất tất, vậy mà ông vừa muốn sang nhà người ta bê trộm về một cây hoa trị giá mấy nghìn bảng Anh. Rồi ông lại tần ngần nhìn bên này và ngắm bên kia. Nhà bên kia vắng ngắt. Có lẽ đôi vợ chồng trẻ đã ra khỏi nhà để làm những việc mà họ nghĩ nên làm vào cái ngày tận cùng của cuộc sống. Sẽ chẳng có ai biết, mà có biết thì cũng có sao, ngày mai có ông chánh án tòa án nào sống sót được chắc phải mở phiên tòa trên sao hỏa mà xét xử. Ông lại đỏ mặt rồi lại thở dài. Bên ấy với bên này có mấy bước chân, mấy bước chân cho sự hoàn thiện niềm đam mê của cả đời người… bất giác, đôi chân ông như vô định, chúng nhảy qua bờ rào sang nhà bên kia. Sau rồi, ông tràn ngập niềm hân hoan mãn nguyện khi Nàng Tím được về nơi nàng phải thuộc về. Nàng về với nơi tràn ngập lòng yêu thương của ông và của những chị em hoa khác. Ông ngắm một lần toàn bộ vườn hồng với tấm lòng của trẻ thơ, hoan hỉ xoa hai tay vào nhau và không quên nở một nụ cười mãn nguyện.
Xong việc, Giáo sư đi vào nhà cùng vợ và con gái thắp nến cầu nguyện cho Thế giới
4. Người chồng
Buổi chiều ngày tận thế, Người Chồng không ở nhà. Y đến công ty từ sáng sớm. Chẳng ai mẫn cán đến độ còn bận rộn công việc vào lúc sắp xảy ra sự kiện nghiêm trọng sập đổ trời đất như thế. Y có những lý do riêng, những lý do chỉ riêng y hiểu tại sao ở cái giờ phút người đời dành cho những người yêu thương và làm những việc có ý nghĩa nhất lần cuối cùng thì y lại đến văn phòng làm việc, một mình với nét mặt có một chút lo lắng và một chút hăm hở như sắp dấn thân vào một cuộc phiêu lưu .
Bởi vì Người Chồng có việc để làm ở văn phòng, với y, dĩ nhiên việc đó có ý nghĩa lớn lao.
Y rón rén bước vào phòng của Tổng Giám đốc. Sếp trưởng của y là người thích bút. Sếp có hẳn một chiếc tủ kính để trưng bày những chiếc bút đủ kiểu, đủ màu sắc và hình dạng. Tường phòng còn được trang trí bởi nhiều chiếc bút khổng lồ dài đến nửa mét treo dọc. Tổng Giám đốc và cô bồ nhỏ ở lại căn phòng này từ chiều hôm qua và chỉ vừa đi ra. Có lẽ họ muốn dành trọn cho nhau những giờ phút cuối cùng ở một nơi lãng mạn hơn.
Cửa sổ khép hờ, giấy tờ lộn xộn trên bàn. Như người chủ thật sự của căn phòng quyền lực nhất công ty, Người Chồng ngồi lên chiếc ghế to với cái đệm lưng cao và êm ái ở sau cái bàn làm việc. Y bấm chuông gọi thư ký và càu nhàu, rằng “sao không thay hoa mới, hoa cũ tàn, rụng cánh bẩn hết phòng ?”. Dĩ nhiên, đáp lại tiếng chuông chỉ có tĩnh không. Thư ký Tổng Giám đốc bỏ đã đi từ nhiều hôm trước.
Y điều chỉnh đèn bàn cho sáng hơn và chăm chú đọc tập tài liệu đặt giữa bàn. Bên ngoài bìa tập tài liệu có tiêu đề màu đỏ “Dự thảo sửa đổi nội qui làm việc”. Lật mấy trang, y nhăn mặt rồi lấy chiếc bút đỏ trên bàn gạch chân vài chỗ, ghi chú ra bên lề giấy vài chỗ và khuyên tròn vào vài lỗi chính tả. “Tệ, soạn nội qui làm việc cho cả công ty nghìn người mà viết như đứa học sinh lớp ba”. Nhếch mép cười, cái cười coi thường ông trưởng phòng hành chính, kẻ thường hay mỉa mai hắn là thằng chuyên nịnh bợ các sếp.
Xem xong tập tài liệu, Người Chồng ngả người ra lưng ghế, mắt lim dim tận hưởng sự êm ái của cái ghế Tổng giám đốc và thưởng thức sự tĩnh lặng của một buổi chiều trong căn phòng ở tầng thứ hai mươi hai của tòa nhà. Y có lời hứa sẽ về sớm để đưa vợ về quê, nhưng giờ đây, nó đang ở đâu đó thật xa. Căn phòng quyền lực có con dấu và những cái bút khổng lồ đã thành cái khăn lớn che kín đầu óc tâm trí y, khiến y chỉ nhìn thấy chúng mà thôi.
Ngày trước, vợ chồng trẻ là một đôi bạn thanh mai trúc mã ở quê hương của những đồi chè trung du xanh mướt. Tuổi xuân đôi trai gái đạp xe song song đến trường huyện. Con đường quanh co bụi đỏ đi về xóm chân núi lưu giữ những tháng ngày thơ ngây và lãng mạn của hai người. Chàng trẻ trung áo trắng cười nói hồn nhiên, nàng tóc mây thả dài bay cùng những ngọn gió thổi từ dãy Tam đảo hùng vĩ. Nhà nghèo nhưng chàng học giỏi, là một cán bộ đoàn trường năng nổ. Thày giáo già hiệu trưởng khen chàng trai giỏi vượt khó và có chí tiến thủ. Những đêm cắm trại hội trường, tiếng đàn guitar của chàng trai làm xiêu lòng nhiều nàng thôn nữ. Mười tám tuổi, chàng trai lên thành phố học đại học. Ngày chia tay, chàng trai đã buộc vào cổ tay cô bạn gái một sợi rơm khô, thay cho một lời thề đính ước yêu thương ràng buộc những cuộc đời.
Trường đại học dạy cho chàng trai biết nhiều thứ. Nhưng thứ lớn lao nhất chàng học được lại ở ngoài đời, thứ ấy là sự nhận thức về cuộc sống phồn hoa nơi thị thành. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp đều có ý định ở lại thành phố. Chàng trai không phải là một trường hợp khác biệt.
Một buổi chiều, chàng trai trở về. Làng nhỏ chân núi lần đầu tiên có người về thủ đô học và mang bằng đỏ trở về. Khỏi nói đôi uyên ương hạnh phúc thế nào trong ngày cưới. Cưới xong được một tuần, Người chồng bàn với vợ một kế hoạch tham vọng về một cuộc di cư về thành phố. Họ xin bố mẹ chồng bán mảnh đất ở ngã ba chợ để lấy tiền về nơi thị thành gây dựng cơ nghiệp.
Cuộc sống ở thành phố ban đầu không đẹp như mơ với đôi vợ chồng trẻ nhưng từ lúc Người Chồng được thày giáo cũ xin việc cho ở một công ty lớn của Nhà nước thì bắt đầu khá lên. Từ đây, nhờ năng lực thực và sự nâng đỡ của ông Tổng giám đốc, người bạn thày giáo, Người Chồng bước nhanh trên những nấc thang sự nghiệp. Hai mươi bảy tuổi, nghĩa là chỉ năm năm sau khi lên thành phố, y đã là một trưởng phòng kinh doanh tài ba. Y làm được nhiều việc tốt cho công ty và cũng kiếm được kha khá cho riêng mình.
Nhưng Người Chồng không vừa lòng với cái ghế trưởng phòng. Y là một kẻ nhiều tham vọng. Y khao khát được ngồi vào cái ghế Tổng giám đốc này. Cái ghế quyền uy mà nhờ nó, người ngồi trên nó có thể nói một câu mà đến mấy nghìn người xanh mắt lên sợ. Y lập cả một kế hoạch thực hiện trong 5 năm tới rất khoa học và chi tiết cho những bước đi dẫn đến chiếc ghế. Mỗi lần có việc vào gặp sếp lớn, mắt y lại thèm thuồng nhìn vào cái ghế có tựa lưng cao và những chiếc bút. Và cho dù người đang ngồi chiếc ghế đó là ân nhân giúp đỡ y nhiều, y vẫn thấy ghen ghét trong lòng, thoáng tưởng tượng ra một ngày y ngồi vào chiếc ghế kia.
Mọi sự có lẽ sẽ đi theo đúng lộ trình kế hoạch của y, nếu không xảy ra cái sự cố khủng khiếp với loài người vào nửa đêm nay. Y thấy ức muốn phát điên khi nghe thông cáo của cái Ủy ban khoa học chết tiệt của Liên hợp quốc.
Nhưng bây giờ thì y đang ngồi đây, trên cái ghế quyền uy và căn phòng đầy đủ tiện nghi cùng hộp dấu đỏ trên bàn. Cuối cùng bằng một cách không ngờ, không cần âm mưu, bạo lực hay tiền bạc , y cũng được thỏa mãn với những ham muốn của mình, dẫu rằng cái quyền năng kia giờ chẳng còn làm ai sợ nữa. Y lôi trong ngăn kéo bàn ra một tập hợp đồng mới soạn, kiên nhẫn đọc đến trang cuối cùng. Y lấy chiếc bút tím ký vào bên đại diện của công ty và tự tay đóng cái dấu đỏ đầy uy lực lên chữ ký còn tươi màu mực.
Rồi, ngây ngất như kẻ dùng ma túy, y khẽ khàng ngửa người ra tựa ghế, mơ màng chìm vào giấc ngủ lúc nào không ai hay, mặc kệ bao nhiêu người đang cuống cuồng gào thét ở phố dưới kia…
Cùng lúc ấy, có một lời hứa mỏng manh như làn khói nhỏ đã bay ra ngoài cửa sổ, bị gió đánh tan vào khoảng không bao la.
5. Người vợ
Người vợ cô đơn ngồi khóc trong phòng khách . Căn phòng nhỏ đã trở thành rộng mênh mông đối với một người đang tuyệt vọng.
Nàng ngồi chờ chồng mình ở đây tưởng như cả thế kỷ. Chồng nàng nói sẽ trở về sớm, sẽ lái ô tô đưa nàng về quê với mẹ già. Nguyện vọng của nàng thật chính đáng và thánh thiện. Nhưng cả ngày rồi, càng chờ, càng không thấy bóng người đâu. Mỗi tiếng động từ phía cửa đều làm nàng thắp lên một hy vọng. Nhưng đáp lại sự mong chờ đó chỉ là tiếng gió lùa hay bóng dáng một con mèo vừa lẻn vào phòng.
Ba giờ chiều…
Bốn giờ chiều…
Năm giờ chiều…
Ngày tận thế, chẳng có chuyến xe khách nào còn hoạt động, mà tất nhiên, nàng chẳng thể còn thời gian và có đủ sức lực đi bộ một trăm hai mươi cây số để về. Nàng chẳng biết chồng đi đâu, có khi đang hú hí với đứa nào rồi. Nàng bấm máy điện thoại nhưng chẳng công ty điện thoại nào còn hoạt động ở cái ngày này.
Quê nàng và người mẹ già giờ dường như đã ở phía bên kia của vũ trụ.
Trong phòng nàng, bút, màu và toan vẽ vứt bừa bộn. Nỗi buồn và sự thất vọng đã vắt kiệt sức của người phụ nữ bé nhỏ. Nàng buông cây bút vẽ khi còn đang dang dở. Bức tranh chỉ toàn những khuôn mặt người u ám trong một chiều định mệnh u ám. Nàng nhớ mẹ, nhớ quê hương, nhớ những đồi chè xanh mướt và những ngọn gió chở hương thơm lúa chín lúc chiều về. Nàng ước nàng có đôi cánh để ngay bây giờ, nàng bay về bên người mẹ già tóc bạc thương yêu, người mà giờ này chắc hẳn đang đau đáu ngóng trông những đứa con phương xa. Nàng muốn về với mẹ để nói một lời tạ lỗi mà lẽ ra nàng phải nói từ lâu rồi, về với mẹ để được một lần cuối ôm mẹ thổn thức như ngày bé thơ…
Mẹ nàng, người mẹ thôn quê cả đời chưa bao giờ đi xa hơn phố huyện, liệu có thể hình dung ra đứa con rể đang tự sường với giấc mơ đời mình trong căn phòng quyền lực. Mẹ nàng, người mẹ mắt đã mờ, tay đã run có biết con gái mình đang tột cùng thất vọng trong căn phòng tả tơi những mảnh vẽ của bức tranh màu xám. Mẹ nàng, người đã hi sinh cả cuộc đời mình cho những đứa con, trong giờ phút tận thế này, mẹ có biết những đứa con bất hiếu sẽ không về ?
Ngày trước, cha nàng làm việc ở phòng văn hóa huyện. Ông thích vẽ nhưng những bức tranh về nông thôn. Trong tranh, dù vẽ người hay vật, mọi thứ thường bị biến dạng không giống với thực tế, theo một cách ít ai ngờ tới. Vì thế, ở huyện chẳng ai ưa nổi tranh ông. Cũng vì lẽ đó mà những bức tranh chỉ chiếm khiêm tốn không gian phòng riêng của ông mà thôi. Năm Người Vợ lên mười tuổi, một người phụ nữ ăn mặc quí phái về nhà xem tranh. Người ấy đặc biệt ấn tượng với bức vẽ một con đường quê uốn lượn dưới chân những đồi chè xanh, một thiếu nữ tóc dài đứng bên đường, tay thả từng chiếc lá mà mỗi chiếc được được vẽ cách điệu từ một đôi môi tím đang đang hé cười. Những chiếc lá nối đuôi nhau chạy về phía cuối trời. Người phụ nữ bảo ông theo về thành phố để giới thiệu và tổ chức triển lãm tranh. Rồi ông đi, ông đi mãi trong nỗi buồn và sự căm hận của mẹ nàng. Thi thoảng ông có gửi dăm ba dòng về cùng với vài manh áo mới cho lũ trẻ. Ông kể ông đã có cuộc sống mới nơi thành phố và mong người vợ ở quê hiểu và tha lỗi cho ông.
Cũng năm ấy, mẹ nàng đã đánh nàng một trận rất đau khi bà bắt gặp nàng đang say sưa tập vẽ. Bà đốt hết tranh của chồng mà ông không mang theo và cấm tiệt đứa con gái bé nhỏ theo nghề của bố. Với bà, việc vẽ vời chỉ gợi đến cho bà hình ảnh người chồng. Nhưng có lẽ nghiệp vẽ đã được qui định trong gien di truyền từ cha, nó luôn thúc ép nàng và ham muốn vẽ cũng lớn dần theo năm tháng. Nàng hay giấu mẹ vẽ mỗi khi bà không có nhà, hay nhiều lúc vẽ ở trên lớp học. Rồi cũng có lúc người mẹ biết chuyện. Một lần, trong lúc nỗi căm hờn lên đến đỉnh điểm, bà đã giằng bức tranh dở dang trong tay đứa con gái, xé tan nát và tát nó một cái rất đau. “Con muốn về sống với bố” – Cái tát chỉ để lại vết hằn trên má nàng đến hôm sau, nhưng câu nói buột miệng của cô bé mười bốn tuổi lúc ấy đã để lại một vết thương lòng đến rất nhiều năm sau. Người mẹ như nhìn thấy lưu ảnh của người chồng bội bạc trong hình hài đứa con gái mới lớn. Còn đứa con gái nghĩ mẹ độc đoán và cay nghiệt. Cái tát và câu nói hỗn hào dần trở thành khe núi sâu lẳng lặng chia cắt cuộc sống hai người. Sau này, khi chồng nàng bàn chuyện về thành phố sống, nàng không tốn nhiều thời gian suy nghĩ để tán thành kế hoạch đó.
Nhưng bây giờ, trong những giờ khắc cuối cùng, nàng chỉ nhớ đến mẹ và những đồi chè xanh. Nàng muốn nói một lời để xin mẹ tha thứ cho những lỗi lầm của mình, muốn lại cùng bà ngồi bên bếp lửa tuổi thơ, nghe câu chuyện cổ tích Tấm Cám và phồng má thổi củ khoai vừa cời ra từ bếp hồng…
Nàng lật lại toan vẽ và từ trong tiềm thức sâu thẳm, nàng vẽ thêm vào bức vẽ u ám dang dở kia một một cây cầu, một người phụ nữ váy trắng tinh khiết, khuôn mạt xám lạnh với đôi mắt u hoài. Trên bầu trời, có hai thiên thần đang vẫy tay đón người phụ nữ đi. Một mảnh trăng chiều lạnh giá, cô đơn….
Nàng chẳng thiết gì nữa, cho dù phải đợi chờ chỉ một phút nàng cũng không muốn nữa. Nàng đã biết nàng phải làm gì bây giờ. Nàng hành động như cái máy, lấy trong tủ ra chiếc váy trắng mới dùng một lần vào ngày cưới, mặc vào người. Trên đôi chân trần bé nhỏ, nàng thờ thẫn ra phố, men theo những lối quen để đến cây cầu qua sông Hồng. Nàng chọn chỗ giữa sông, ngắm nhìn vài phút dòng sông sẫm màu chảy lững lờ trong chiều muộn. Dòng sông chảy về đâu ? có về qua quê làng nơi chân núi, có về lại những đồi chè xanh mướt sau mưa ? Có đi qua những cánh đồng lúa vàng thơm ngát chân núi ? Nàng chẳng biết. nhưng nàng tin một điều, những thiên thần sẽ giúp nàng bay về quê hương và về bên mẹ già thân yêu. Nàng nắm chặt lan can thành cầu, chậm rãi trèo lên chấn song đầu tiên….
Đúng vào cái giây phút người vợ định thả đôi bàn tay ra và lộn người để trẫm mình xuống dòng sông lạnh thì một người đàn ông đã giữ nàng lại bằng đôi bàn tay rắn rỏi. Trong bóng tối nhá nhem của buổi chiều, nàng thấy nét mặt người ấy có chút gì quen thuộc. Nhưng nàng chằng còn muốn biết hắn ta là ai nữa. “Dù ông là ai cũng đừng ngăn cản tôi. Tôi biết việc mình đang làm”- Nàng khẽ nói. Người đàn ông nói gấp gáp như thể sợ nàng sẽ lại tìm cách lao mình xuống sông lần nữa “Này, cô đừng làm thế”. Chẳng thèm nghe hắn nói, nàng muốn rút mạnh tay mình ra khỏi đôi tay cứng rắn thô kệch đang kìm chặt.. Đằng nào thì nàng cũng chỉ muốn kết thúc ngay bây giờ. Dùng hết sức mạnh của mình, nàng giằng co với người đàn ông. Gã đàn ông dù thừa sức khỏe để giữ, nhưng hắn đang đứng trên cầu và nàng vẫn còn trên lan can sắt. Hắn sợ người phụ nữ mà hắn bí mật đi theo nhiều năm sẽ thoát khỏi tay hắn vĩnh viễn. Hắn cuống cuồng, hắn vụng về can ngăn. Nhưng hắn là tên cướp, hắn chỉ có kinh nghiệm đe dọa người khác để cướp, chứ chẳng biết cách thuyết phục can ngăn một người sắp tự vẫn bao giờ.
Vào lúc cuộc giằng co quyết liệt nhất, theo phản xạ tự nhiên của một tên cướp, hắn rút con dao giắt dưới áo, dí vào mạng sườn người phụ nữ yếu ớt và gằn giọng đúng theo bản chất nghề nghiệp “Cô, xuống ngay khỏi lan can”. Giọng nói lạnh như lưỡi thép đang trong tay hắn làm người phụ nữ trong nàng sợ hãi một cách bản năng. Nàng dừng giằng co, bủn rủn cảm nhận lưỡi dao đang làm nhói làn da mềm. Chỉ cần một giây phân tán ấy, tên cướp kéo mạnh và nàng rơi trở lại phía trong cầu.
Có một phút tĩnh lặng trôi qua. Rồi Người Vợ bật khóc. hỏi sao không để cho nàng được lao mình xuống sông. Hắn không trả lời, mà nói đã đi theo nàng từ khi nàng ra khỏi nhà. Hắn sợ vẻ mặt thê lương của nàng và e ngại có điều không hay xảy ra. Sau một vài phút trấn tĩnh, nàng nhớ lại đã gặp hắn từ ba năm trước trong một lần về quê. Khi ấy, hắn bị thương. máu chảy bê bết ở chân. Nàng hôm ấy đã đạp xe hơn mấy cây số đến hiệu thuốc để mua thuốc và bông băng sơ cứu vết thương cho hắn. Cũng chỉ vậy, rồi từ đó nàng chẳng bao giờ gặp lại, chẳng bao giờ biết gì về hắn nữa.
Chẳng mấy chốc, khi sự kinh ngạc về việc xuất hiện của Tên Cướp qua đi, thì nỗi u hoài lại trở lại với Người Vợ. Nàng khóc thổn thức trong nỗi buồn của người muốn chết mà chẳng được chết. Nàng hét lên “Anh buông ra để tôi về với mẹ tôi”. Đến đây, Tên Cướp đã hiểu nàng muốn gì. Hắn cười “Về thì về – nhưng không phải về với dòng sông kia – mà bằng cái này”. Hắn nói và chỉ vào chiếc xe máy vừa cùng hắn tới đây đang được dựng ngay bên cạnh. “Hai tiếng nữa, cô sẽ về đến nhà” – Hắn khẳng định.
Mắt nàng sáng lên khi hiểu ra tình thế mới. Nhưng rồi nỗi buồn lại trở lại ngay. Liệu có thể tin lòng hào hiệp của một tên cướp chuyên nghiệp như hắn ? “Anh muốn gì” – Nàng cảnh giác hỏi.
“Muốn gì ư ?” – Hắn khẽ nhún vai. “ Một tên cướp bốn mươi tuổi cô đơn muốn gì ở cái chiều tận thế này ư ? Tôi không biết.”
“Hay là cô làm ơn bóc đi miếng băng cô đã dùng để băng bó những mảnh ký ức nhức nhối vết thương của đời tôi đi ?”
“Cô chẳng biết đâu, từ bao lâu, tôi mong ước được cùng cô đi chung một đoạn đường. Không phải để báo ơn cô đã chăm sóc tôi khi xưa ngã gãy chân, mà bởi vì chỉ đơn giản là tôi có thể được ở bên cô một đoạn đường.”
“Thề có trời đất, tôi có thể bắt cô phải theo tôi bất cứ lúc nào, nhưng tôi đã thấy cô sống hạnh phúc và sang trọng ở bên kia, còn tôi là kẻ giang hồ cô đơn sống bụi bặm và tục tĩu ở bên này.”
“Cô cho tôi được đưa cô về với quê, với mẹ, để có thể được nhìn thấy thêm một lần, cô mỉm cười như chiều nào…”.
Tên cướp nói, đôi lúc ngập ngừng. Hắn ngạc nhiên với chính mình, vì sao mà hắn có thể nói một thôi dài trôi chảy mà không phải chèn một từ tục tĩu nào vào. Rồi hắn nhìn đồng hồ đeo tay và nhận ra tay hắn vẫn lăm lăm con dao găm. “Anh vứt nó đi, tôi sợ” – Nàng khẽ nói. Hắn lại cười hề hề, nụ cười hiền. Nàng thấy tin vào nụ cười của hắn. Hắn vứt con dao xuống sông và kéo tay nàng về phía chiếc xe. “Ở thời khắc này, đi với ai về quê có phải là điều cần đắn đo hay không ?” Nàng thầm hỏi mà chẳng phải để tìm câu trả lời. Chiếc xe nổ máy, chở theo hai người lao vút đi trong chiều chạng vạng.
6. Tên Cướp
Hắn có một cái tên không xấu, nhưng người ta chỉ nhớ cái tên Cướp Trùm. Bốn mươi tuổi, tụi đàn em gọi kính trọng là Anh Trùm, còn những người dân biết hắn thì gọi một cách căm hờn là thằng Cướp Trùm.
Tên Cướp trở thành mồ côi từ khi mười một tuổi. Khi ấy bố mẹ hắn bị kết án chung thân vì buôn ma túy. Rồi bố hắn chết trong tù khi đánh nhau với đầu gấu để giành quyền phân phối ma túy trong đó. Me hắn cũng ra đi vĩnh viễn hai năm sau vì bệnh tả. Hắn ở với cô ruột, cô thương đứa cháu côi cút như con và hắn sẽ có một tuổi thơ khá đẹp nếu như chồng cô không phải là một gã nghiện rượu. Trong cơn say hàng ngày, gã đánh vợ và đứa cháu vợ thâm tím. Được hai năm, một chiều có người trước là đàn em của bố hắn đến đón hắn đi sau khi tẩn cho gã say một trận thừa sống thiếu chết.
Hắn thành tên cướp từ đó, theo một cách đơn giản và tự nhiên.
Hắn đã từng lang thang kiếm ăn suốt dọc quốc lộ Ba và tỉnh lộ Hai sáu mốt. Lũ tay chân của hắn kiểm soát lãnh địa qua vùng Bắc Sơn, Phúc thuận, vào sâu đến những làng nhỏ chân núi Tam đảo. Hắn đã ở tù mười năm. Nhà tù dạy hắn âm mưu và sự chai sạn. Ba mươi bảy tuổi, hắn là Anh Trùm của một băng cướp khét tiếng với những chiến công táo tợn lẫy lừng. Hắn sống khá sòng phẳng và thẳng tính khiến lũ đàn ém vừa nể vừa sợ.
Nhưng Tên Cướp chẳng ở trên đỉnh vinh quang được mấy thời gian. Một buổi chiều mùa hè, một chiếc xe con màu cà phê chở ba người đàn ông mặc veston sẫm mầu lịch sự đến gặp hắn. Người đội mũ phớt chính là Anh Cả, biệt hiệu mà giới giang hồ gọi kẻ lãnh tụ của thế giới ngầm. Anh Cả lên đây không để ăn cướp. Anh Cả lên đây để khai thác quặng kim loại quí và bán ra nước ngoài. Bằng cách ấy, Anh Cả kiếm được nhiều đô la. Để tránh nhà chức trách chú ý, Anh Cả không muốn Trùm thường xuyên gây ầm ĩ bằng những vụ cướp bóc của hắn. Anh Cả đưa hắn một túi tiền và bảo hắn đi đừng bao giờ trở lại. Tên Cướp cay cú cái giọng hách dịch kẻ cả của Anh Cả. Và hắn cũng thấy cầm túi tiền này mà bỏ lũ đàn em ra đi thì thật hèn nhát. Vậy là một cuộc hẹn huyết chiến được sắp đặt.
Nhưng buổi hẹn chiều hôm đó, Tên Cướp và hai mươi đàn em không phải chiến đấu với Anh Cả, mà là với hai xe đầy cảnh sát trang bị đầy đủ vũ khí. Anh Cả đã báo cho nhà chức trách biết trước về sự có mặt của những tên cướp khét tiếng. Chỉ có hai tên đàn em và hắn chạy thoát. Hôm ấy trời mưa rất to, hắn lao chiếc xe min khơ như điên để trốn tránh cảnh sát. Ô tô cảnh sát đuổi một lúc thì bị một đoạn đường đầy sỏi đá chắn lối. Phúc cho hắn, xe máy lách qua được. Ô tô chạy chậm lại cũng là cơ hội cho hắn tăng tốc bỏ xa cảnh sát đuổi theo. Xe hắn chạy hết tốc độ luồn lách qua các đường ngang ngõ tắt các xóm nhỏ, suýt đâm vào vài người qua đường.
Khi đã chiều muộn thì bất ngờ xe hắn đi qua đoạn đường có con suối nhỏ chảy ngang qua. Những ngày nắng, nước suối qua đường chỉ cao nửa gang tay nên hắn qua đây vẫn phóng nhanh qua dễ dàng. Hôm nay trời mưa, nước suối lên to, chảy ào ào và dâng cao đến gần nửa mét. Xe chạy nhanh đến giữa suối thì bất ngờ chết máy. Thế là cả người và xe đổ nhào trong dòng nước xiết, chiếc xe máy nặng nề đè lên người tên cướp. Hắn khó nhọc dắt được xe sang đến phía bên kia thì lại khuỵu xuống vì một bên chân đau buốt và vì đã kiệt sức hoàn toàn sau cuộc trốn chạy.
Quần áo ướt lạnh nước suối và máu chảy rất nhiều từ cái chân đau, hắn ngồi trên đường vắng, lòng ê chề nỗi cô đơn. Thật phúc cho hắn, vừa lúc ấy có một người đạp xe qua. Người ấy dừng lại chỗ hắn ngồi và xem xét vết thương của hắn.. Đó là một cô gái có mái tóc dài và nụ cười sáng. “Vết thương của anh phải được cầm máu ngay. Nhà tôi gần đây, anh cố theo tôi về đó. Tôi sẽ kiếm đồ băng bó cho”. Có lẽ người con gái đó không nhận ra hắn là một tướng cướp. Nói rồi nàng dìu hắn với cái chân tập tễnh đi bộ nửa cây số đến nhà nàng. Một căn nhà nhỏ đầu xóm, ánh sáng từ bóng đèn len lét. Nàng lấy ra một bộ quần áo khô của em trai, bảo hắn thay bộ đang mặc ướt đẫm nước suối và dính bê bết máu, rồi đi ra ngoài. Nàng ra con suối, lấy xe đạp để đến hiệu thuốc duy nhất trong thị trân mua bông băng.
Người con gái ấy chính là Người Vợ. Nàng về quê dự đám cưới người em họ. Mai mới là ngày cưới nhưng mẹ nàng và em trai sang giúp từ hồi trưa còn chưa về. Tên Cướp chăm chăm nhìn đôi bàn tay người con gái đang rửa sạch vết thương ở chân hắn rồi băng bó lại. Đôi bàn tay trắng và những động tác mềm mại khiến hắn dường như không thấy cảm giác đau đớn nữa. Đã lâu lắm, kể từ ngày bỏ nhà đi, đã không có đôi bàn tay phụ nữ nào chăm sóc hắn. Hắn nhìn nàng và nhớ về người cô khi xưa. Lòng hắn thấy nhẹ tênh. Hắn coi cô như mẹ và thực ra, mãi về sau này, những lúc hắn thấy bế tắc nhất trong cuộc sống, hắn vẫn muốn trở về căn nhà khi xưa để được cô hắn cưng chiều và an ủi. Nhưng hắn không bao giờ có thể trở về được nữa. Kẻ mang hắn đi hôm đó, đêm đã quay lại và đốt căn nhà. Cô và chú thoát được nhưng rồi hai người sợ hãi bỏ đi đâu sống không ai hay.
Tên Cướp thấy đôi bàn tay người con gái kia sao giống đôi bàn tay của cô hắn khi xưa đến thế. Cô hắn cũng băng bó rất khéo mỗi khi hắn bị chú đánh hay nô đùa với chúng bạn bị ngã. Hắn ước ao được ở lại đây, bỏ hết những sóng gió ngoài kia, để mãi được ngắm người con gái và đôi tay mềm mại. Nhưng giấc mơ viển vông chợt tan ngay. Hắn là tên cướp, một tên cướp chuyên nghiệp. Cuộc đời của tên cướp thì phải trôi nổi, bạo lực và thù hận. Ở đấy không có chỗ cho sự yêu thương và những tình cảm lãng mạn. Nếu hắn ở lại đây, sớm mai có thể sẽ có hai mươi cảnh sát đến vây bắt. Hắn rùng mình nhớ về quãng thời gian ở tù.
Chừng nửa giờ đồng hồ sau, sức lực hắn đã hồi phục được phần nào. Hắn cố đứng dây, nói lời cảm ơn cô gái, khi ấy đang lúi húi nấu cơm trong bếp, rồi tập tễnh bước vào trong xóm, kiếm một chiếc xe ôm và đi ngay trong đêm.
Sau lần ấy, bọn đàn em của hắn theo hết Anh Cả làm bảo kê các mỏ khai thác khoáng sản. Không còn đất sống, hắn bỏ đi lang thang và cuộc đời của hắn đã rẽ sang một ngả khác.
Tên cướp lang thang về thành phố, ban đầu không định ở lâu vì hắn chẳng biết làm gì ở đây. Đất nào cũng có chủ, rừng nào chẳng thuộc nhà vua, đâu dễ săn bắn tự do được. Mà ngoài làm nghề tướng cướp ra, hắn còn biết làm gì ?
Một lần đến chỗ một chiến hữu cũ chơi, hắn tình cờ nhìn thấy người phụ nữ đã giúp hắn trong lúc hoạn nạn. Tên cướp sửng sốt thấy người ấy mặc sang trọng và đi vào một căn biệt thự đẹp. Hắn cứ thơ thẩn ngẩn ngơ cả chiều hôm đó ở quán nước bên đường đối diện. Đời hắn chưa bao giờ biết yêu ai. Những phụ nữ từng ở bên hắn chỉ toàn là thứ tầm gửi. Hắn cũng không nghĩ hắn yêu thương gì người con gái sống bên đường kia. Chỉ là hắn thấy mến đôi bàn tay và nụ cười sáng mà hiền hậu của nàng khi trước. Đôi bàn tay và nụ cười giống như của người cô đã chăm sóc hắn những năm tháng tuổi thơ. Mỗi lần nghĩ đến chúng, tên cướp như thấy quãng thời gian yên bình thời xa lắc trở lại. Đôi bàn tay và nụ cười của người con gái ấy như thứ ảo ảnh khó tan trong đầu, sai khiến hắn chiều nào cũng quay lại đây để ngồi chờ đợi được nhìn thấy nàng. Hôm nào không thấy bóng nàng, hắn thấy buồn và hụt hẫng. Lại có hôm hắn thấy nàng ngồi trong ô tô cùng chồng đi đi ra ngoài, hắn thấy nhộn nhạo ấm ức, chỉ muốn nhảy ra giữa đường chặn xe và gí dao vào cổ người chồng.
Nhưng tên cướp đã không làm thế. Hắn biết việc làm ấy sẽ làm tan vỡ cái ảo ảnh yên bình cuối cùng có trong tâm trí hắn bởi cô gái ân nhân ấy sẽ thù hận hắn đến cùng. Trải qua mấy mươi năm sóng gió cuộc đời của một tên cướp, và khi đã sa cơ lỡ vận, hắn mới thấy chút yên ả thanh bình ấy thật đáng quí. Nó giúp hắn tĩnh tâm nhận ra, rằng hắn thật cô đơn trên cõi đời này. Họ hàng người thân không còn ai, lũ đàn em bỏ theo Anh Cả, bạn bè chiến hữu mỗi người một đường, hắn bơ vơ, bơ vơ ở cái tuổi bốn mươi chưa hẳn già mà cũng chẳng còn trẻ.
Người chiến hữu cũ giúp hắn một chỗ làm ở bến cảng sông. Buổi sáng, hắn đến thu cho bạn hắn tiền bảo kê bến bãi các tàu buôn hoa quả, gia súc. Buổi chiều hắn quản đám bốc vác cửu vạn và xe thồ hàng. Cuối giờ chiều, đôi chân theo thói quen lại dẫn hắn về quán nước quen, chờ đợi bóng hình của cô gái có nụ cười và đôi bàn tay mà hắn thấy thân quen. Mãi đến khi trời tối hẳn, hắn mới trở về phòng trọ trong một cái ngõ tối tăm cách đó không xa. Có đêm hắn nằm mơ thấy mình đi bên cạnh cô gái ấy một đoạn đường, đoạn đường bên những dồi chè xanh mướt và có con suối nhỏ chảy ngang qua. Trong giấc mơ, hắn và cô gái đi rất chậm như e sợ phải đến cuối con đường. Tỉnh dậy, đầu óc hắn còn ngẩn ngơ suốt cả sáng hôm ấy.
Buổi chiều ngày tận thế, tên cướp vẫn lặng lẽ đi về phía căn biệt thự, bởi thực ra hắn cũng chẳng biết đi chỗ nào khác. Không bạn bè, không người thân, hắn chỉ còn chỗ quán nước bên đường này là thân thuộc. Rồi hắn thấy bóng người vợ một mình lặng lẽ ra ngoài. Thoáng thấy vẻ mặt thê lương của nàng, hắn linh cảm thấy có điều chẳng lành, bèn lên xe máy chậm rãi bám theo.
Giờ thì tên cướp đã được toại nguyện. Hắn đang đi cùng Người vợ một quãng đường….
7. Nhà thơ 2.
Lúc Tên Cướp giơ dao nói những điều từ đáy lòng hắn với Người Vợ, bước chân phiêu diêu ngẫu nhiên đưa Nhà Thơ vừa đến. Nàng ngạc nhiên dừng lại chứng kiến một màn tỏ tình kỳ lạ. Tình người thật khôn cùng, biết đâu là chuẩn mực. Nhà thơ đã xem rất nhiều người yêu tỏ tình lãng mạn và say đắm, nhưng lần này hoàn toàn khác, thật đặc biệt. Tình yêu rõ ràng là không cần có khuôn thước nào cả. Nhà Thơ với tay vào hư không và lấy ra từ đó một tờ giấy, trên đã có vài dòng mực tím, nét chữ dường như mới tinh. Nàng khẽ đọc :
“Ta bỏ lại sau những hận thù
Một đời ngang dọc với vinh quang
Đơn côi – trả lại đời phiêu bạt
Xin được cùng em một lối về.
Chẳng thể tặng em những ngọt ngào,
Những mùa lá rụng với yêu thương
Tình hoang còn chút hoàng hôn muộn
Thắp hết một lần dẫn em đi.” (2)
Xong, Nhà Thơ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình, nàng bước với những bước chân nhẹ như gió thoảng. Trong một thoáng, hình ảnh nàng đã biến mất khỏi cây cầu. Ở phía Nhà Thơ vừa đi khỏi, một cánh chim chiều vụt bay lên, sải cánh chập chờn trong chút ánh sáng cuối cùng của hoàng hôn muộn.
8. Sau ngày tận thế.
Mười hai giờ đêm.
Chẳng có một sự va chạm kinh hoàng nào xảy ra giữa trái đất và tiểu hành tinh khổng lồ cả. Điều mà Giáo sư không tin sẽ xảy ra thì đã xảy ra. Mười một giờ rưỡi đêm, trên mặt trời bùng phát một vụ nổ plasma dữ dội. Vụ nổ giải phóng một năng lượng khổng lồ hướng về phía tiểu hành tinh đang lao về trái đất, khiến nó chệch khỏi quỹ đạo va chạm. Ảnh hưởng còn lại của tiểu hành tinh là làm đường đi của trái đất dịch chuyển đôi chút và mỗi năm loài người mất đi ba phút quí giá. Nhưng rõ ràng, đó là một may mắn cực kỳ lớn lao của toàn bộ thế giới này. Có lẽ vào thời khắc cuối cùng, Chúa Trời đã nghĩ lại mà cho vạn vật một ân huệ.
Ngày hôm sau, mọi sự trở lại như nó vốn có. Học sinh lại đến trường, người lớn lại đến công sở làm việc. Tổng Giám đốc vào phòng làm việc thấy những tài liệu quan trọng lòa loẹt bút tích của Người Chồng. Y còn cả gan ký và đóng dấu vào hợp đồng trị giá hàng triệu đô la. Dĩ nhiên, Sếp lớn nổi giận và việc làm đầu tiên mà ông làm hôm đó là ký giấy sa thải Người Chồng.
Người Chồng cay cú lầm lũi trở về nhà. Căn biệt thự vắng lặng, y chạy quanh mấy căn phòng tìm vợ nhưng chỉ thấy những mảnh tan tác của bức vẽ u ám dang dở. Y bật camera an ninh và tua lại xem vợ y hôm qua đi đâu. Y thấy lại cảnh người Người Vợ áo váy trắng xóa thất thần đi ra khỏi cửa và sau đó thấy hình Giáo sư nhảy qua bờ rào bê chậu hoa hồng tím về bên kia.
Người Vợ không bao giờ trở lại thành phố với y nữa. Nàng ở lại quê cùng Tên Cướp chăm sóc mẹ già và những đồi chè xanh mướt. Họ sống cuộc sống mới bình dị và lương thiện.
Người Chồng mất việc, mất vợ, y đổ dồn sự căm phẫn về Giáo Sư. Y viết đơn tố cáo vị giáo sư đáng kính và nộp băng ghi hình cho công an. Một sáng, có ba người cảnh sát đến trường đại học dẫn Giáo Sư đi trong sự ngỡ ngàng của đồng nghiệp và sinh viên.
Còn Nhà Thơ, buổi sáng hôm sau đó, nàng thức dậy, soi gương thấy mình vẫn đẹp và gợi cảm như mọi hôm. Nàng mỉm cười khi ngồi vào bàn viết. Nàng viết :
“Sớm mai đây mặt trời vẫn mọc ở hướng Đông
Ai hay nhân loại đảo điên đâu cần ngày tận thế…? ” (1)
H.M. 1/2014
Ghi chú :
(1) – Thơ của chị Rainbow.
(2) – Thơ của tác giả truyện.
Những lời hát rồi tan như bóng nắng
Những nụ cười rồi gió cũng cuốn đi
Anh sẽ sống tháng ngày vô nghĩa ấy
Nếu tình em không dẫn lối anh về.
.
28.10.13
“Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya…”
.
Có những lúc thấy lòng thật buồn. Đốm lửa mà ta đôi lần thắp lên có chăng cho ta một chút tự hào bé bỏng thì nó cũng chẳng đủ nhiệt để sưởi ấm cho cả một đời dài đa phần là tăm tối và vô nghĩa.
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/dem-thay-ta-la-thac-do-quang-dung.dCGP4D4iwmVW.html
Tôi thức dậy từ một giấc mơ
Để ngã vào một giấc mơ khác
Giấc mơ có những chuyến xe
Đi về nơi không biết
Tôi đứng như kẻ lạc loài
Không bắt nổi một chuyến xe
.
Trên tay can vát và cây bút
Tôi vẽ một mùa thu
Tôi vẽ một dòng sông
Tôi vẽ một con thuyền
Tôi vẽ riêng tôi
Không màu
.
Em cũng chỉ là một chuyến xe
Chuyến xe có bông hoa vàng
Lướt qua
Em để lại dấu son,
Thắp lên đốm lửa
Thắp lên vết bỏng
Thắp lên những niềm đau
.
Tôi đốt bức tranh
Đốt mùa thu
Đốt cả con thuyền, đốt cả dòng sông
Tôi còn lại tôi
Lạc đường
Trong giấc mơ của chính mình.
.
16.3.2013
.
Tôi ở lại mùa đông năm ấy
Với đêm công viên đầy tóc em mềm mại
Với mặt hồ lao xao hơi thở gấp
Ánh đèn lắt lay làn môi lá
Và cơn gió lạnh trái nết
mơn man hôn đôi mắt em xanh đờ đẫn
Tôi ở lại mùa đông năm ấy
Trong góc quán cafe ồn ào khói thuốc
Những mẩu serenade chiều lấp lánh
Từng nốt vu vơ trôi vào tiếng nói cười
Có một giọt cafe
Vương trên móng tay em đen láy.
Tôi ở lại mùa đông năm ấy
Trên con đường đôi hối hả những vòng quay
Bông hồng vàng tôi hồi hộp
Ngõ nhỏ nhà em hững hờ
Những giọt mưa lạnh trái mùa
Ngơ ngác rơi…
Em bỏ di từ mùa đông ấy
Quán cafe năm sau đóng cửa
Hồ công viên rồi cạn nước
Ngõ nhỏ mịt mờ
Năm tháng bập bùng trôi
Chỉ còn bản serenade chiều
Qua nhiều mùa đông
Vẫn hát trong tôi
Những nốt đau thổn thức.
26,1,2013
Mùa ấy chúng mình tay trong tay
Thu về gió thổi lá vàng bay
Đôi ta áo trắng trong chiều vắng
Em hỡi, ngày xưa đẹp đẹp lắm thay.
Nắng chiều đã tắt ngoài song
Làm sao trả lại đêm đông lạnh lùng ?
Người xa cách trở muôn trùng
Làm sao trả lai mặn nồng ái ân ?
Mùa thu lá rung đầy sân
Câu thơ mắc nợ,
…………Gieo vần
………………Ai hay ?
27.08.12
1
Nửa đêm mưa lạc bờ sông ký ức
Nhớ một làn môi đến khát khô.
2
Anh đã qua những ngày hè nông nổi
Giông tố giờ còn lại thoáng heo may.
Đêm mùa đông Hà nội, cái rét ngọt trườn qua những tán cây bên đường.
Một chàng trai dắt bô xe trên phố. Họa vô đơn chí, chàng sơ ý đánh rơi ví tiền, xe lai tự dưng hỏng lốp. Chàng dắt xe, con đường mờ ảo trong ánh đèn cao áp len lét như dài vô tận trong đêm.
Không người thợ sửa xe nào chấp nhận sửa xe miễn phí.
Rồi đến cuối một con phố, chàng gặp một lão ăn xin gày gò đang ngồi thổi sáo bên đường, Tiếng sáo trúc trầm bổng quyện với những ngọn gió lạnh lang thang trên đường. Ông lão thấy chàng bị thợ sửa xe từ chối bèn gọi chàng lại và lấy ra từ trong bị một ít tiền đưa chàng, bảo chàng mai hãy mang trả lại.
Khỏi phải nói chàng trai cảm thấy cảm động thế nào. Chàng tự hứa với mình chỉ tối mai thôi, chàng sẽ đem trả lão với số tiền gấp đôi ông cho mượn.
Nhưng tối hôm sau là sinh nhật người yêu, dĩ nhiên chàng phải đến dự và hẹn với lòng mình hôm sau đấy nhất định đến trả tiền ông lão. Ngày hôm sau đó, anh chàng gọi chàng về quê họp chia tài sản vì bố chàng yếu lắm rồi. Chuyện quan trọng, chàng phải về ngay, lại tự hẹn với mình tuần sau lên thành phố trả tiền ông lão. Tuần sau khi vừa quay trở lại thì chàng nhận được quyết đinh vào miền nam công tác gấp, Chàng tặc lưỡi “chậm trả ông cụ thêm mấy tuần nữa vây, mình sẽ trả ông lão gấp ba số tiền”.
Thế rồi công việc nối tiếp công việc, tháng ngày trôi theo những chiếc xe khói bụi mờ đường. Chàng găt hái nhiều thành công và tiền bạc. Ông lão với cây sáo đêm nào từng ngày dần mờ nhạt trong trí nhớ của chàng.
Rồi một buổi khuya mùa đông năm sau, nghe radio phát điệu nhạc sáo trúc du dương, chàng chợt nhớ về ông lão. Bản nhạc từ radio có sức thôi thúc lạ kỳ chàng trở lai góc phố xưa để gặp ông lão đã giúp chàng khi trước. Chàng mang theo rất nhiều tiền.
Góc phố vẫn gốc cây già, ánh đèn len lét và những cơn gió lạnh quét lá trên đường nhưng lại thiếu vắng tiếng sáo khi xưa. Người sửa xe nói ông lão ăn xin mất đột tử đã mấy hôm rồi, ông còn thêm “khổ thân, khi mất, gió mùa về mà ông lão chỉ có manh áo mỏng trên người”.
Chàng trai đột nhiên như lại nghe thấy tiếng sáo trúc của ông lão khi nào vang lên trong tâm khảm mình, chỉ có điều giai điệu của nó dường như buồn da diết. Gió lạnh vẫn đang lang thang trên đường len lét ánh đèn cao áp và hình như nó vừa bứt thêm vài ba cái la khô rồi thổi bay chúng trong đêm.
HMM
28.6.2012
.
Tôi ngồi nơi quán đông người
Phải nghe thiên hạ nói cười với nhau
Mà lòng ở tận đâu đâu
Thẩn thơ gỡ hạt mưa ngâu giữa trời.
7.2012
Chiều hớt hải buông mình trên phố lạ
Gió đìu hiu loang loáng ánh đèn pha
Đời vội vã con tàu không bến đỗ
Nửa đêm khuya… sực nhớ lại tên mình…
4.2012
Chiều nay tôi tiễn một người đi
Rượu đắng, lòng sâu, đôi mắt xa.
Bờ kia… bên ấy… bao mưa nữa ?
Đò chiều… lặng lẽ… một người qua…
4.2012
Ở nơi xa anh gửi thương vào gió
Tình bay theo trở lại một vườn em
Miền mùa thu mắt em trong mắt lá
Thủa xuân sang đôi bướm lại vờn hoa
Anh sẽ về để ươm loài hoa tím
Dâng lên em nàng công chúa vườn yêu
Mưa rồi tạnh, em lau dòng nước mắt
Cầu vồng lên, mình viết chuyện trăm năm……
.
Anh ở nơi sông ngầu nước đỏ
Ấp ủ mơ một cánh buồm nâu
Tháng năm vùi mình
Ngược xuôi, xuôi ngược
Nhân gian rộng dài
Bến đa nào em đợi chờ anh ?
Nơi anh ở ngày mưa ngày nắng
Nhưng tim anh chưa tắt nắng bao giờ
Câu thơ nhỏ đẩy cánh buồm rẽ sóng
Thuyền Trương Chi anh chở nắng tìm em.
Mùa thu nào em đứng cạnh hoàng hôn
Anh kịp đến che đêm buồn lạnh giá
Ngàn sợi nắng dệt một trang giấy trắng
Yêu thương về em viết mấy vần thơ….
Dù em nơi đâu
Sông dài hay biển cả
Mộng Trương Chi anh chỉ một Mỵ Nương.
9.10.2011
Sóng ầm ào
Gió thét gào
Lòng biển động
Mưa về
Buồn mênh mang
Có con thuyền lẻ loi
Tìm chốn bình yên
Chiều giông gió.
Sấm chớp nổi lên
Chiều đi,
Đêm về sâu thăm thẳm.
Tĩnh gia 8/2011
Gió may về,
Buồn thênh phố nhỏ.
Bướm vàng bay
Lá vàng bay
Nắng vàng bay.
Em mắt đen
Thấp thỏm bay một mùa thiếu nữ.
T.Q. 8.2011
Theo mình nghĩ các từ “trải nghiệm” và “kinh nghiệm” là không giống nhau hoàn toàn.
“Kinh nghiệm” là một từ hán việt, đã có từ lâu trong tiếng việt. Kinh nghiệm mang ý nghĩa đã trải qua hoàn cảnh hoặc đã làm qua việc đó và đã có kết quả hoặc kết luận để có thể áp dụng vào các lần sau nếu lại rơi vào hoàn cảnh hoặc việc tương tự.
“Trải nghiệm” là một từ mới xuất hiện trong tiếng Việt, bằng chứng là “trải nghiệm” không tìm thấy trong từ điển Tiếng Việt của gs Hoàng Phê và các từ điển khác. Vì mới xuất hiện nên cách dùng và ý nghĩa của nó có thể chưa rõ ràng và thống nhất. Theo mình hiểu thì trải nghiệm cũng mang hàm ý trải qua hoàn cảnh hoặc đã làm qua việc đó nhưng không (hoặc ít) mang tính rút ra kết luận để áp dụng vào các trường hợp tương tự.
Xem các ví dụ sau thì sẽ rõ ràng hơn :
Nói “Hai Lúa đã làm cho chiếc máy bay thứ hai bay được nhờ có những kinh nghiệm từ thất bại của chiếc thứ nhất” chứ không ai nói “Hai Lúa đã làm cho chiếc máy bay thứ hai bay được nhờ có những trải nghiệm từ thất bại của chiếc thứ nhất”.
Nói “Apple đã mang đến cho người dùng những trải nghiệm thú vị với chiếc Iphone 4” chứ hiện nay ít người sẽ nói “Apple đã mang đến cho người dùng những kinh nghiệm thú vị với chiếc Iphone 4”.
Tuy nhiên, ngôn ngữ có đặc điểm là đa nghĩa và luôn phát triển vì thế ý nghĩa và cách sử dụng của các từ trên có thể khác nhau đối với từng người và từng thời điểm.
Có vẻ như báo chí và nhiều người hiện nay thích sử dụng “trải nghiệm” hơn. Điều này cũng giống như ta thích mua cái ti vi LCD để thay thế cái cũ ở nhà, dù biết rằng chưa chắc nó đã cho hình ảnh đẹp hơn (có lẽ vì nó có vẻ phù hợp với thời đại hơn).
8.2011